Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
225197

Những điều cần biết về bệnh phong và cách phòng bệnh phong

Ngày 09/05/2024 17:37:37

Bệnh phong, xưa kia hay gọi là Bệnh Cùi hoặc Bệnh Hủi, là bệnh nhiễm khuẩn mạn tính gây bệnh ở da và thần kinh ngoại biên, tuy không nguy hiểm chết người nhưng lại có thể để lại di chứng tàn tật nặng nề cho người mắc bệnh phong. Do có nguyên nhân là vi khuẩn, nên Bệnh phong là bệnh lây truyền, chứ không di truyền từ đời này sang đời khác như nhiều người lầm tưởng.


Screenshot (177).png 1. Nguyên nhân Bệnh phong

Bệnh Phong  là một bệnh nhiễm khuẩn mạn  tính do một vi khuẩn có  tên khoa học  là Mycobacterium leprae gây ra. Trực khuẩn này do một nhà bác học Na Uy tên là Hansen tìm ra năm 1873, nên còn được gọi  là  trực khuẩn Hansen, và bệnh phong được gọi  là bệnh Hansen. Bệnh chủ yếu gây thương tổn ở da, các dây thần kinh ngoại biên và có thể để lại những tàn tật vĩnh viễn ở cơ thể. Bệnh Phong lây nhiễm không phân biệt độ tuổi, giới tính, dân tộc.

2. Cơ chế lây bệnh Phong

Có 3 yếu tố tham gia vào quá trình lây lan bệnh phong và làm cho bệnh phong lây ít và rất khó lây:  là vi khuẩn Hansen gây bệnh, đường lây và cơ thể cảm nhiễm:

- Thứ nhất: Vi khuẩn Hansen, có tên khoa học là Mycobacterium leprae, là một loại trực khuẩn giống như trực khuẩn gây ra Bệnh Lao nhưng yếu ớt hơn. Vi khuẩn Hansen là vi khuẩn ký  sinh nội bào bắt buột,  chỉ  sống được  trong  tế bào  da và  thần kinh ở người, nó chỉ  sống được không quá 48 giờ ra ngoài cơ  thể. Chỉ có người mắc bệnh phong nặng, thể nhiều khuẩn mà chưa được điều trị, vi khuẩn còn sống mới có thể lây bệnh sang cho người lành. Khi người bệnh Phong đã được uống thuốc điều trị thì sau 5 ngày vi khuẩn sẽ yếu đi và không còn khả năng lây lan cho cộng đồng xã hội; đó là lý do thứ nhất giải thích tại sao bệnh phong rất khó lây;

- Thứ hai: Đường lây, bệnh phong chủ yếu lây lan qua đường hô hấp, và qua các vết thương  trầy sướt ở da. Người bệnh phong nặng, khi chưa uống  thuốc điều  trị,  lúc hít thở,  sẽ phóng xuất  ra bầu không khí những hạt  sương nước mũi  li  ti,  chứa nhiều vi khuẩn bệnh phong, nhưng chỉ có một tỷ lệ nhỏ (khoảng ít hơn 30%) còn khỏe mạnh và có khả năng gây bệnh cho người bị nhiễm mới. Nếu đã uống thuốc, những hạt sương nước mũi đó càng chứa  ít vi khuẩn còn  sống  (dưới 5%) và bị yếu đi nhiều nên khả năng gây bệnh càng khó khăn.

- Thứ ba: Cơ thể cảm nhiễm. Bệnh phong khó lây vì còn tùy thuộc vào sức đề kháng tự nhiên của mỗi người khác nhau. Khoảng 90% dân số trên thế giới có sức đề kháng tự nhiên chống lại bệnh phong: những người này không bao giờ mắc bệnh phong, cho dù có tự tiêm truyền vi khuẩn còn sống vào cơ thể của họ. Thế nên có thể kết luận rằng, Bệnh Phong là bệnh truyền nhiễm, lây lan từ người bệnh chưa điều trị sang người lành, nhưng lây ít và rất khó lây, bởi những lý do sau: Nguồn phát sinh vi khuẩn gây ra bệnh phong là rất thấp, Điều kiện sống của vi khuẩn phong rất khó khăn khi ra khỏi cơ thể con người. Việc mắc bệnh phong hay không còn  tùy  thuộc vào  sức đề kháng  tự nhiên của  từng người.

3. Cách nhận biết bệnh Phong 

Trừ những trường hợp không điển hình  rất khó nhận dạng, bệnh phong có  thể được nhận biết và chẩn đoán một cách dễ dàng dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng đầu tiên của bệnh. Các dấu hiệu và triệu chứng đó thường là sự xuất hiện của một hoặc nhiều dát có màu đỏ hoặc nhạt màu hơn vùng da xung quanh kèm theo sự mất cảm giác hoặc mất tiết mồ hôi ở vùng dát da đó (đỏ/bạc màu – không cảm giác – khô). 

4. Phát hiện và điều trị sớm bệnh phong 

- Bệnh Phong thường bắt đầu với những dát da nhưng nó cũng có thể tấn công và làm tổn hại các dây  thần kinh ngoại biên. Nếu không được phát hiện và điều  trị  sớm  thì những tổn hại  thần kinh này sẽ dẫn đến  tàn  tật vĩnh viễn ở mắt, bàn  tay và bàn chân của bệnh nhân cho dù họ có được điều trị khỏi bệnh.

- Thời gian điều trị là 6 tháng cho  thể nhẹ và 12 tháng cho  thể nặng. Thuốc được cấp phát miễn phí, được theo dõi uống thuốc đều tại nhà cho đến khi hoàn thành thời gian điều trị và khỏi bệnh.

- Nếu người bệnh được phát hiện sớm và điều  trị đúng  thì  sẽ khỏi bệnh hoàn  toàn và không để  lại di chứng; nếu phát hiện bệnh và điều  trị muộn  thì bệnh vẫn được chữa khỏi hoàn  toàn nhưng có  thể để  lại di chứng,  tàn  tật ở mặt,  tay, chân, ảnh hưởng đến sinh hoạt thường ngày. Các di chứng tàn tật này, tùy theo mức độ, có thể được ngành y tế tiếp tục chăm sóc, phẫu thuật tái tạo, phục hồi chức năng, phần nào giúp người tàn tật do bệnh phong có thể trở lại cuộc sống gần bình thường.

5. Cách phòng ngừa bệnh phong

Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có vaccine phòng ngừa bệnh phong nên mục tiêu của phòng ngừa bệnh phong là: Phát hiện sớm và điều trị khỏi hoàn toàn cho những người mắc bệnh phong để cắt đứt nguồn lây trong cộng đồng; đồng thời cũng làm giảm số lượng người bệnh phát hiện muộn, dẫn đến làm giảm tỷ lệ tàn tật cho người mắc bệnh phong, từ đó người dân sẽ bớt dần những định kiến sai lầm về bệnh phong, đã từng là 1 nguyên nhân làm bệnh nhân ngại đến khám và điều trị bệnh cho bản thân.

Để phòng ngừa bệnh phong chúng ta cần thực hiện các nội dung sau đây:

+Tăng  cường  giáo  dục  sức  khỏe  trong  nhân  dân  về  “những  điều  cần  biếtvề  bệnh phong” bằng nhiều hình  thức như: Phát  thanh, Truyền hình, Báo chí, và các phương tiện truyền thông thích hợp khác kể cả Internet... để người bệnh có thể được phát hiện sớm, điều trị đúng bệnh phong, người dân có hiểu biết đúng về bệnh phong cũng như không còn những định kiến sai lầm về bệnh phong.

+Phát hiện sớm và điều  trị kịp  thời những người mắc bệnh phong để cắt đứt nguồn lây trong cộng đồng.

+Mặc  dù  chúng  ta  vẫn  chưa  tìm  ra  vaccine  phòng  ngừa  bệnh  phong  nhưng  nhiều nghiên cứu cho thấy rằng có một tỷ lệ những người được chủng ngừa bệnh Lao có khả năng miễn dịch với bệnh phong, nên chủng ngừa Lao có thể được áp dụng để phòng ngừa cả bệnh Lao lẫn bệnh Phong.

unnamed.jpg

Những điều cần biết về bệnh phong và cách phòng bệnh phong

Đăng lúc: 09/05/2024 17:37:37 (GMT+7)

Bệnh phong, xưa kia hay gọi là Bệnh Cùi hoặc Bệnh Hủi, là bệnh nhiễm khuẩn mạn tính gây bệnh ở da và thần kinh ngoại biên, tuy không nguy hiểm chết người nhưng lại có thể để lại di chứng tàn tật nặng nề cho người mắc bệnh phong. Do có nguyên nhân là vi khuẩn, nên Bệnh phong là bệnh lây truyền, chứ không di truyền từ đời này sang đời khác như nhiều người lầm tưởng.


Screenshot (177).png 1. Nguyên nhân Bệnh phong

Bệnh Phong  là một bệnh nhiễm khuẩn mạn  tính do một vi khuẩn có  tên khoa học  là Mycobacterium leprae gây ra. Trực khuẩn này do một nhà bác học Na Uy tên là Hansen tìm ra năm 1873, nên còn được gọi  là  trực khuẩn Hansen, và bệnh phong được gọi  là bệnh Hansen. Bệnh chủ yếu gây thương tổn ở da, các dây thần kinh ngoại biên và có thể để lại những tàn tật vĩnh viễn ở cơ thể. Bệnh Phong lây nhiễm không phân biệt độ tuổi, giới tính, dân tộc.

2. Cơ chế lây bệnh Phong

Có 3 yếu tố tham gia vào quá trình lây lan bệnh phong và làm cho bệnh phong lây ít và rất khó lây:  là vi khuẩn Hansen gây bệnh, đường lây và cơ thể cảm nhiễm:

- Thứ nhất: Vi khuẩn Hansen, có tên khoa học là Mycobacterium leprae, là một loại trực khuẩn giống như trực khuẩn gây ra Bệnh Lao nhưng yếu ớt hơn. Vi khuẩn Hansen là vi khuẩn ký  sinh nội bào bắt buột,  chỉ  sống được  trong  tế bào  da và  thần kinh ở người, nó chỉ  sống được không quá 48 giờ ra ngoài cơ  thể. Chỉ có người mắc bệnh phong nặng, thể nhiều khuẩn mà chưa được điều trị, vi khuẩn còn sống mới có thể lây bệnh sang cho người lành. Khi người bệnh Phong đã được uống thuốc điều trị thì sau 5 ngày vi khuẩn sẽ yếu đi và không còn khả năng lây lan cho cộng đồng xã hội; đó là lý do thứ nhất giải thích tại sao bệnh phong rất khó lây;

- Thứ hai: Đường lây, bệnh phong chủ yếu lây lan qua đường hô hấp, và qua các vết thương  trầy sướt ở da. Người bệnh phong nặng, khi chưa uống  thuốc điều  trị,  lúc hít thở,  sẽ phóng xuất  ra bầu không khí những hạt  sương nước mũi  li  ti,  chứa nhiều vi khuẩn bệnh phong, nhưng chỉ có một tỷ lệ nhỏ (khoảng ít hơn 30%) còn khỏe mạnh và có khả năng gây bệnh cho người bị nhiễm mới. Nếu đã uống thuốc, những hạt sương nước mũi đó càng chứa  ít vi khuẩn còn  sống  (dưới 5%) và bị yếu đi nhiều nên khả năng gây bệnh càng khó khăn.

- Thứ ba: Cơ thể cảm nhiễm. Bệnh phong khó lây vì còn tùy thuộc vào sức đề kháng tự nhiên của mỗi người khác nhau. Khoảng 90% dân số trên thế giới có sức đề kháng tự nhiên chống lại bệnh phong: những người này không bao giờ mắc bệnh phong, cho dù có tự tiêm truyền vi khuẩn còn sống vào cơ thể của họ. Thế nên có thể kết luận rằng, Bệnh Phong là bệnh truyền nhiễm, lây lan từ người bệnh chưa điều trị sang người lành, nhưng lây ít và rất khó lây, bởi những lý do sau: Nguồn phát sinh vi khuẩn gây ra bệnh phong là rất thấp, Điều kiện sống của vi khuẩn phong rất khó khăn khi ra khỏi cơ thể con người. Việc mắc bệnh phong hay không còn  tùy  thuộc vào  sức đề kháng  tự nhiên của  từng người.

3. Cách nhận biết bệnh Phong 

Trừ những trường hợp không điển hình  rất khó nhận dạng, bệnh phong có  thể được nhận biết và chẩn đoán một cách dễ dàng dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng đầu tiên của bệnh. Các dấu hiệu và triệu chứng đó thường là sự xuất hiện của một hoặc nhiều dát có màu đỏ hoặc nhạt màu hơn vùng da xung quanh kèm theo sự mất cảm giác hoặc mất tiết mồ hôi ở vùng dát da đó (đỏ/bạc màu – không cảm giác – khô). 

4. Phát hiện và điều trị sớm bệnh phong 

- Bệnh Phong thường bắt đầu với những dát da nhưng nó cũng có thể tấn công và làm tổn hại các dây  thần kinh ngoại biên. Nếu không được phát hiện và điều  trị  sớm  thì những tổn hại  thần kinh này sẽ dẫn đến  tàn  tật vĩnh viễn ở mắt, bàn  tay và bàn chân của bệnh nhân cho dù họ có được điều trị khỏi bệnh.

- Thời gian điều trị là 6 tháng cho  thể nhẹ và 12 tháng cho  thể nặng. Thuốc được cấp phát miễn phí, được theo dõi uống thuốc đều tại nhà cho đến khi hoàn thành thời gian điều trị và khỏi bệnh.

- Nếu người bệnh được phát hiện sớm và điều  trị đúng  thì  sẽ khỏi bệnh hoàn  toàn và không để  lại di chứng; nếu phát hiện bệnh và điều  trị muộn  thì bệnh vẫn được chữa khỏi hoàn  toàn nhưng có  thể để  lại di chứng,  tàn  tật ở mặt,  tay, chân, ảnh hưởng đến sinh hoạt thường ngày. Các di chứng tàn tật này, tùy theo mức độ, có thể được ngành y tế tiếp tục chăm sóc, phẫu thuật tái tạo, phục hồi chức năng, phần nào giúp người tàn tật do bệnh phong có thể trở lại cuộc sống gần bình thường.

5. Cách phòng ngừa bệnh phong

Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có vaccine phòng ngừa bệnh phong nên mục tiêu của phòng ngừa bệnh phong là: Phát hiện sớm và điều trị khỏi hoàn toàn cho những người mắc bệnh phong để cắt đứt nguồn lây trong cộng đồng; đồng thời cũng làm giảm số lượng người bệnh phát hiện muộn, dẫn đến làm giảm tỷ lệ tàn tật cho người mắc bệnh phong, từ đó người dân sẽ bớt dần những định kiến sai lầm về bệnh phong, đã từng là 1 nguyên nhân làm bệnh nhân ngại đến khám và điều trị bệnh cho bản thân.

Để phòng ngừa bệnh phong chúng ta cần thực hiện các nội dung sau đây:

+Tăng  cường  giáo  dục  sức  khỏe  trong  nhân  dân  về  “những  điều  cần  biếtvề  bệnh phong” bằng nhiều hình  thức như: Phát  thanh, Truyền hình, Báo chí, và các phương tiện truyền thông thích hợp khác kể cả Internet... để người bệnh có thể được phát hiện sớm, điều trị đúng bệnh phong, người dân có hiểu biết đúng về bệnh phong cũng như không còn những định kiến sai lầm về bệnh phong.

+Phát hiện sớm và điều  trị kịp  thời những người mắc bệnh phong để cắt đứt nguồn lây trong cộng đồng.

+Mặc  dù  chúng  ta  vẫn  chưa  tìm  ra  vaccine  phòng  ngừa  bệnh  phong  nhưng  nhiều nghiên cứu cho thấy rằng có một tỷ lệ những người được chủng ngừa bệnh Lao có khả năng miễn dịch với bệnh phong, nên chủng ngừa Lao có thể được áp dụng để phòng ngừa cả bệnh Lao lẫn bệnh Phong.

unnamed.jpg